Đọc các tác phẩm trên văn đàn Việt Nam
hiện nay, văn phẩm cũng như thi phẩm, tất cả đều thể hiện sự tiến
bộ và sáng tạo trong tư tưởng, tình cảm và lối viết của tác giả.
Thế nhưng, bên cạnh sự phát triển của những tác phẩm đầy nghệ thuật, nhân văn
ấy; chúng ta không thể phủ nhận một thực tế đang diễn ra: những tiểu
thuyết ngôn tình ngày càng xuất hiện nhiều, xã hội chiếm một phần
đông số lượng người viết cũng như số người đọc loại tiểu thuyết ấy.
Vậy nhân đây, tôi cũng xin đưa ra một vài nhận định của mình về dòng
văn học thị trường.
Có ý kiến cho rằng dòng văn học thị
trường vừa mới nổi lên cách đây không lâu. Nhưng theo tôi, dòng văn học
thị trường cũng như loại sách ngôn tình đã có từ sớm, nó được du
nhập từ phương Tây vào khoảng giữa thế kỷ hai mươi. Lúc đó, các nhà
văn thường sáng tác theo xu hướng phương Tây và những cuốn tiểu thuyết
tình yêu đôi lứa ra đời rất nhiều. Sau một thời gian; một số nhà văn
đã lên tiếng phê phán tính ủy mị, nhu nhược trong những cuốn tiểu
thuyết ấy; họ cho đó là loại tiểu thuyết đi ngược với quan điểm Ngệ
thuật vị nhân sinh. Giáo sư Hoàng Tân Dân từng nói: “Nếu người nào
có gan, nhận sự thật, phải thấy rằng chẳng qua mình chịu ảnh hưởng
của lối văn lãng mạn phong tình nên mình mới phải
khóc mây khóc gió. Có vậy một số ít văn sĩ mới cho là hợp thời.
Chứng bệnh không đau mà rên trong phái thi cũ, thi mới
tôi thấy nhiều lắm.”
Thực vậy, các tiểu thuyết tâm lý xã hội hồi mới xuất
hiện ở Việt Nam sau cuộc bút chiến giữa cái cũ và cái mới đã được
nhiều độc giả đón nhận nhưng rồi cũng bị một số nhà văn phản đối
bởi vì chúng quá thoát ly thực trạng xã hội, không phản ánh được
lịch sử và bối cảnh thời đại. Thế nhưng, tại sao dòng văn học ấy
vẫn tồn tại mãi cho đến tận bây giờ? Những tiểu thuyết tâm lý xã
hội đó vẫn phát triển mạnh và hiện nay người ta gọi nó với cái tên
mới: tiểu thuyết ngôn tình. Theo dấu chân phát triển của nền văn học,
những thể loại đã cũ và không còn hợp thời đại tất bị đào thải
như các thể thơ phong kiến gò bó. Nói như vậy, thì loại tiểu thuyết
ngôn tình vẫn chẳng bao giờ cũ, bởi vì cái đề tài của nó bao giờ
cũng là đề tài tình yêu – một đề tài muôn thuở trong thơ văn và cũng
là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tâm hồn mỗi người. Viết về
tình yêu, tất nhiên chẳng có gì sai, nhưng điều tôi muốn nói ở đây
chính là nhiều tiểu thuyết mạng hay các bài tản văn viết về tình yêu,
đọc tới đọc lui thấy cũng chỉ đầy rẫy những đoạn văn với câu chữ
bóng bẩy, sướt mướt, chuộng theo tâm trạng của người đọc. Để rồi
người đọc cho nó là hay, là sâu sắc; nhưng thực chất nó chỉ nuông
chiều sự yếu đuối của tâm hồn. Ta không thể không thừa nhận dường như
người viết đã bi kịch hóa tình yêu lúc thì bằng sự cao thượng, lúc
thì bằng sự ích kỉ của nhân vật. Họ cũng như chính người đọc ảo
tưởng rằng đó mới là cái đẹp của tình yêu tuyệt đích, và qua những
loại văn như vậy, một số người chỉ biết có tình yêu đôi lứa mà quên
mất những giá trị đích thực khác của cuộc sống.
Thật khó để xuất bản được một cuốn sách, nhưng ngày nay,
nhiều tác giả trẻ, hay nói đúng hơn họ chỉ là những cư dân mạng nổi
tiếng nhờ việc viết một câu chuyện tình lâm li nào đấy và được
nhiều số lượt người đọc. Những câu chuyện chỉ rộ lên một khoảng
thời gian ngắn rồi lại chìm đi theo thời gian, nhưng lối sống yếu
đuối mà nó đã hun đúc trong tâm hồn người đọc, lối sống chỉ biết
có tình yêu mà hời hợt với cuộc đời, với xã hội; sẽ ảnh hưởng
trực tiếp và lâu dài đối với giới trẻ hiện nay. Sách ngôn tình chỉ
lo khai thác những khía cạnh phức tạp trong tình yêu, và những khía
cạnh ấy chỉ được thể hiện bằng vài đoạn văn rời rạc, vài câu hỏi
bâng quơ mà người ta cho đó là “viết theo cảm xúc” không lệ thuộc quy
tắc nào. Tôi xin dẫn chứng ra đây câu nói mà hôm trước tôi tình cờ
đọc được trên mạng: "Con gái… mạnh mẽ quá sẽ tổn thương
nhiều! Con gái… yêu nhiều quá sẽ khóc nhiều! Con gái… yếu đuối quá
sẽ ngã nhiều! Nhưng con gái… khóc và đau nhiều quá sẽ lạnh lùng và
nhẫn tâm rất nhiều!" .
|
Sách ngôn tình đang khiến độc giả trẻ trở nên yếu đuối (ảnh minh
họa: internet)
|
|
Thế giới trong sách ngôn tình chỉ độc nhất có những cung
bậc tình yêu đôi lứa chứ không xen tình cảm nào khác. Nhưng, nếu ta
quá chìm ngập trong những câu chuyện tình lãng mạn thì đó chỉ là ta
đang tự đánh lừa mình trong cái ảo ảnh không bao giờ tồn tại ở thế
giới thực. Nếu ta chỉ biết khóc trước nỗi đau khổ tình yêu như nhân
vật khóc nỗi đau khổ tình yêu dài dằng dặc cả mấy trang giấy của
họ, tức là ta đang tự giết chết chính mình, tức là ta chấp nhận
lối sống yếu hèn. Cuộc đời có biết bao con người và bao số phận đau
khổ đáng để ta phải nhỏ nước mắt cảm thông, thử hỏi ta đã thực sự
nhỏ được cho những con người bất hạnh ấy một giọt nước mắt nào chưa?
|
Hay ta chỉ biết khóc cho những chuyện tình mông lung không
thật! Tuy nhiên, cái hại ở
sách ngôn tình không chỉ nằm ở những câu văn sáo rỗng khơi gợi sự
yếu đuối của người trẻ về tinh thần mà cái hại đáng sợ hơn của nó
nằm ở những tiểu thuyết ngôn tình không hợp với thuần phong mỹ tục.
Một số cuốn sách mà người viết hơi quá đà, những chi tiết không
lành mạnh được thể hiện quá rõ ràng đến mức lố lăng. Những mối
quan hệ không đúng mực vượt ngoài khuôn khổ đạo đức và sự xa hoa,
trụy lạc nghiễm nhiên được họ đưa vào tác phẩm. Họ cho đó là phong
cách viết mới, là sáng tạo nghệ thuật nên sách mới thu hút số độc
giả, mới bán chạy. Nhưng sáng tạo theo đúng nghĩ của nó không phải
chỉ đơn thuần là tạo ra cái mới, đã gọi là sáng tạo nghệ thuật
thì cái mình sáng tạo ra nó phải đẹp và phải là nghệ thuật chân
chính.
Nhà lý luận cách mạng Bùi Công Trừng từng nói: “Muốn
làm tròn trách nhiệm, các ngài tưởng không gì hay hơn là các ngài làm
sao cho tác phẩm các ngài rung động được tâm hồn ức triệu con người
đang tìm đường nâng cao nhân cách của con người. Hàng triệu con người
đang tán thành việc bồi bổ, xây đắp Việt Nam”. Văn chương cũng
đóng một vai trò quan trọng trong việc bồi bổ, xây đắp nền
văn hóa Việt Nam. Cái đẹp của nghệ thuật, nhưng phải là nghệ thuật
chân chính thì mới hướng thiện con người, mới có thể giáo dục nhân
cách con người Việt Nam một cách toàn vẹn.
Tôi cũng xin góp ý kiến của mình về sự đa dạng phong phú
của nền văn học Việt Nam. Có ý kiến cho dòng văn học thị trường làm
đa dạng văn học Việt Nam hơn về thể loại. Nhưng có lẽ, văn học Việt
Nam không cần có dòng văn học thị trường cũng đủ đa dạng rồi. So với
các nước khác, bao nhiêu văn thơ nước ta từ xưa tới nay không thiếu thể
loại nào và nhiều vô kể: kịch; văn chương lãng mạn viết theo phong
cách phương Tây; văn chương hiện thực phê phán, phản ánh thời đại đất
nước; cùng các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng được xem là di sản quý
giá như Truyện Kiều; kể cả các bài ca dao truyền miệng hay
kho tàng truyện dân gian… Bao nhiêu đó cũng đủ làm phong phú cho nền
văn học nước nhà, bây giờ cái đáng được quan tâm chính là làm sao để
văn học Việt Nam phát triển với những tác phẩm gây ảnh hưởng sâu
rộng như những tác phẩm nổi tiếng của các đại văn hào trên thế
giới. Còn văn học thị trường, có cũng được, không có cũng chẳng sao!
Nhưng nếu văn học thị trường phát triển quá mạnh, sinh sôi nhanh như
nấm mọc thì thực là vấn đề đáng báo động như nhà văn Nguyễn Đính
Tú đã nói: “Tác phẩm thị trường có thể đóng vai trò quan trọng,
nhưng chỉ có thể làm nền, mà không thể làm đỉnh của văn học. Bởi
thế, nếu dòng này tồn tại, thống trị thị trường trong thời gian
dài, được bạn đọc tôn sùng thì đó là điều đáng báo động.” Sự phong
phú, đa dạng thể loại của văn học Việt Nam thực sự cần những tác
phẩm mang ý nghĩ lớn, đó mới là mục đích thực sự của văn chương.
Vì vậy theo tôi, trong sự đa dạng thể loại văn học không cần thiết
phải có dòng văn học thị trường.
Aldous Huxley đã nói: “Nghệ
thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời”. Nghệ
thuật mang đến cho con người niềm tin, sự mạnh mẽ để có thể chấp
nhận và vượt qua nỗi đau. Nghệ thuật chắp cho con người một đôi cánh
bay tới những ước mơ, giúp con người hướng tới cái đẹp và sống hết
mình với khát vọng đẹp. Rõ ràng, nghệ thuật giúp ta chống lại số
phận nghiệt ngã của mình chứ nghệ thuật không hề là sự ủy mị ve
vuốt trạng thái, tinh thần yếu đuối của chúng ta. Đến với văn chương
chỉ để tìm kiếm sự ve vuốt ấy, nghĩa là bạn đã hiểu sai về văn
chương và nghệ thuật.
Và tôi vô cùng tâm đắc một câu nói của nhà văn Nam Cao: “Nghệ
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những
kiếp lầm than”. Bản chất của nghệ thuật là thế! Những lớp người
đi trước đã cùng nhau tìm tòi, tranh luận để đưa ra một quan niệm
đúng đắn về nghệ thuật. Nhớ lại quá khứ; tôi không quên Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nhất Linh, F.G.Lorca… những con người
đã hết lòng ủng hộ tinh thần sáng tạo nghệ thuật; đã ước vọng về
một nền văn chương, nghệ thuật chân chính cho thế hệ sau.
Đến nay; nền văn học của dân tộc ta vẫn còn đó. Tôi
không muốn văn học Việt Nam trở nên suy thoái bởi dòng văn thị trường.
Tôi không muốn bao nhiêu tinh hoa, ước vọng của người xưa bị quên lãng,
để rồi sau cùng, chúng ta bỗng chốc chẳng còn gì nữa.
Comments[ 0 ]
Post a Comment
Quý vị chỉ cần copy link hình và dán vào ô comment.