Trong khá nhiều bến đò trên dòng Thu
Bồn hay là dòng Vu Gia từ thượng nguồn đổ về biển, mỗi khi có dịp ngược xuôi
trên những chuyến đò dọc chạy ngang qua là tôi đều có thể nhắm mắt lại gọi đúng
tên từng bến bờ. Bến Phú Thuận đông vui tấp nập; bến Giao Thủy, Vân Ly mênh
mông lãng mạn tiếng hò; bến Trung Phước phố chợ ồn ã; bến Dầu tĩnh mịch trầm
tư... Nhiều nhà văn, nhà thơ đất Quảng xưa nay nổi tiếng trên văn đàn như Bùi
Giáng, Phạm Hầu, Nam Trân, Nguyễn Văn Bổng, Võ Quảng, Trinh Đường, Tạ Ký... đều
sinh ra từ các làng quê bên những bến sông này. Bây giờ thì tất cả đã là người
xưa, đã “hồn muôn năm cũ”. Thử đọc lại một đoạn văn của nhà văn Nguyễn Văn Bổng
viết về con đò dọc ngày xưa trên bến sông Thu Bồn để tưởng bước chân
ông đã từng qua đây. “Từ làng tôi đi Hội An thì buổi chiều ra bến sông Thu Bồn,
xuống đò. Tối, đò nhổ, rời bến, lúc chống chèo, lúc căng buồm chạy phăng phăng
trên mặt nước. Nửa đêm thức giấc, chập chờn trong tiếng hò. Tiếng hò văng vẳng
đâu sau lái đò mình, ơi ới trên những chiếc khác cùng xuôi dòng sông, giọng nam
nữ đối đáp nhau vang vọng giữa trăng nước”.
Sinh thời, tác giả kịch bản phim tài
liệu “Dòng sông hát” - Trần Thanh Lục - đã bao lần đưa GS-TS Trần Văn Khê lênh
đênh trên những chuyến đò dọc trên sông Thu Bồn và Vu Gia nghiên cứu cảm âm, ký
âm, các làn điệu hò chèo thuyền, hò đua ghe để hoàn thiện bộ phim khá công phu
của ông. Họ bây giờ cũng đã là phần hồn trên sông nước này.
Còn đối với nhà thơ Trinh Đường thì
chuyến đò dọc trên dòng sông Thu Bồn vào một đêm mưa gió của hơn nửa thế kỷ trước
là chuyến đò duyên phận. Nói một cách khác, chuyến đò năm xưa ấy đã có công
khích lệ làm nên một Trinh Đường thi sĩ cho đến mãi về sau này. Trong những lần
ông về thăm quê, hầu như lần nào nhà thơ cũng thường rủ tôi làm bạn đường. Khi
thì đi xe khách, lúc thì ngẫu hứng đò giang, qua những lần như thế, tôi mới hiểu
ra cái chuyến đò nên duyên phận ông và thơ là như thế nào. Có một đêm mưa gió đầy
trời trên dòng Thu Bồn, một chàng trai trẻ ngồi gập người phía mũi của con đò cố
phụ chèo chống với người lái đò đưa con đò kịp về nhà sau những ngày chàng trai
xuôi phố Hội rong chơi. Mưa càng lúc càng to. Nước sông Thu cuồn cuộn xiết chảy
đục ngầu phù sa. Con đò cố hết sức nhưng chừng như đến lúc không đủ lực bơi ngược
dòng, mũi muốn bạt tấp vào bờ. Trong khi đó, cái bến quê nằm dưới chân hòn
Ngang mịt mù trong mưa gió còn xa lắc. Vậy là người lái đò đành cho con thuyền
ghé vào bờ cắm sào neo đậu dưới hàng tre bên bờ sông nghỉ lại qua đêm. Đêm đó mặc
cho ai ngủ, chàng trai trẻ chong ngọn đèn bão thức thâu đêm trong mui bầu bạn
say sưa với tập “Lửa thiêng” của Huy Cận mới mua từ nhà sách Hội An đem về, đến
độ quên khuấy cả gió mưa tầm tã giăng kín con thuyền. Chàng trai trẻ trên chuyến
đò dọc ấy chính là Trinh Đường vào cái thời xa lơ xa lắc trước Cách mạng Tháng
Tám. Mãi về sau này, trong lời bạt của Trinh Đường viết cho tập thơ “Tao phùng”
của Huy Cận, ông đã đưa cái chi tiết này vào như một cái duyên nhuốm màu tiền định:
“Và từ đấy, nó (“Lửa thiêng”) trở thành người bạn đường của tôi hơn nửa thế kỷ
nay”. Chao ôi, cái bến mà Trinh Đường cùng người lái đò cắm con sào neo đậu
trong cái đêm mưa gió xa xưa đó giờ là đâu trên quãng sông này?
Nhưng tất cả mọi bến bờ xuất hiện
trong trí nhớ vốn hoang vu của tôi xem ra đã bao lần biển dâu bồi lấp, chỉ có
những vạt nắng chiều trên cái bến Xuân ửng sáng sắc hoa cải vàng của mẹ tôi là
không chịu tắt bao giờ! Đấy là thời con sông chảy qua làng tôi đêm đêm đầy ắp
tiếng hò của bao chàng trai, cô gái. “Nong
tằm, ao cá, nương dâu/ Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”.
|
Sông Thu (ảnh: Vũ Công Điền) |
Tuổi thơ tôi từng được
mẹ cho đi theo xuôi ngược trên những chuyến đò dọc mẹ thuê chở hàng như: thuốc
lá, dầu phụng, đường bát, ớt khô... xuôi về bán ở các chợ Hội An, chợ Hàn. Và rồi
ngược lại, mẹ tôi mua các loại hàng hóa ở phố như vải may mặc, ni-lông che mưa,
dầu lửa, đèn pin... chở về bỏ mối lại cho các sạp ở chợ Phú Thuận, Gia Cốc, Phường
Đông. Đông vui nhất là vào mùa Tết, những chuyến đò dọc chở hàng hóa đi về lại
càng tấp nập hơn. Bởi thế, cái bến đò ngày Xuân suốt đêm ngày trở thành nơi cho
những cuộc hội hè không dứt. Nhà tôi chỉ cách bến đò một cái cồn nhỏ. Đất màu
ven sông hễ đến cuối mùa đông là nhà nào cũng gieo rau cải. Sau khi thu hoạch,
nhiều vạt cải người ta để lại lấy giống cho mùa sau. Vì thế, cứ sang Xuân là
hoa cải trổ vàng rực cả bến sông. Đấy cũng là cái bến Xuân ngập đầy thiên đường
của tuổi thơ tôi! Chỉ có điều, đến khi tôi biết bập bẹ nghêu ngao “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một
lần/ Bao lũ chim rừng họp đàn trên bến Xuân” thì mẹ tôi đã trở thành người
xưa và cái bến Xuân thiên đường ấy cũng đã lở xuống sông sâu tự bao giờ.
Bây giờ, ngồi con đò dọc, tôi đang gọi
ơi ới ngày xưa trên dòng sông vắng. Trả lời tôi là miên man âm thanh gió lạnh.
Là nắng Xuân ửng trên dòng sông như vô vàn hồi quang tự bến xưa trôi về. Bỗng
dưng, ngồi đây mà tôi lại nhớ đến cái bến My Lăng siêu hình trong thơ của thi
sĩ Yến Lan: “Ông lão vẫn say trăng, đầu gối
sách/ Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng/ Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi
đò thôi run rẩy cả ngành trăng”. Trên con đò dọc này giờ chẳng có ánh trăng
nào hết, chỉ có nắng chiều gieo trên mặt sông se sắt vàng. Nhưng quả thật, nói
như Yến Lan về cái bến My Lăng của ông, rằng “Những ai đã có lần đứng đợi một
chuyến đò... Và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải chờ đợi. Bến My
Lăng ở trong lòng tôi và có thể ở trong lòng bạn”.
Vâng, chỉ bằng cách đó, cơ may tôi
còn gặp lại cái bến Xuân xưa với những chuyến đò dọc chất ngất những câu hò...
NGUYỄN NHÃ TIÊN
(Nguồn: nld.com.vn)
Comments[ 0 ]
Post a Comment
Quý vị chỉ cần copy link hình và dán vào ô comment.